Các loại việc làm của người dân là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thành thị với nông thôn. Nếu như ở thành thị, dân cư tập trung làm việc trong các ngành thủ công, công nghiệp và buôn bán là chính, thì ở nông thôn dân cư chủ yếu sản xuất nông nghiệp và những ngành gắn với nông nghiệp, kinh tế nông thôn. Các loại việc làm ở nông thôn rất phong phú và đa dạng với hàng trăm ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên có thể phân chúng thành các loại việc làm thuần nông và việc làm phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay chăn nuôi và trồng trọt vẫn là công việc chính của nhà nông ở nước ta. Trong đó trồng trọt chiếm 73%; chăn nuôi chiếm
27%. Trong trồng trọt cây lương thực vẫn chiếm 78,2% diện tích cơ cấu cây trồng, cây
rau màu và cây công nghiệp chỉ chiếm 21,8%... Còn chăn nuôi ở nông thôn phần lớn chỉ để tận dụng thức ăn dư thừa và cung cấp phần nào nhu cầu thực phẩm ở nông thôn.
Như vậy, có thể nói lao động trong trồng trọt và chăn nuôi là việc làm chính của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở nông thôn lớn lên đã theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm rằng không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích lũy dần trong quá trình người lao động tham gia sản xuất từ nhỏ với tư cách là người lao động phụ của gia đình. Bên cạnh đó, loại công việc này còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại nên người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít có cải tiến, sáng tạo... dẫn đến năng suất và hiệu quả công việc không được nâng cao. Quá trình đó cứ diễn ra như thế từ ngàn năm làm cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn diễn ra một cách chậm chạm.
Thứ hai, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông thôn sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá trình đô thị hóa, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho người nông dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn, tay nghề thấp họ sẽ gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc nặng nhọc với mức lương rẻ mạt... Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH, người lao động làm việc trong lĩnh vực thuần nông là những người có nguy cơ bị thiếu việc làm và bị thất nghiệp cao nhất.