Khái niệm việc làm là tiền đề cơ bản giúp chúng ta nhận dạng một cách chính xác và thống nhất về mối quan hệ giữa lao động và việc làm trong nền kinh tế thị trường.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
Theo bộ luật lao động ở nước ta, khái niệm việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm”.
Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm bao gồm các nội dung sau:
– Là hoạt động lao động của con người.
– Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
– Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh cầu lao động. Về lý thuyết, cầu lao động cho thấy số lượng lao động mà các tổ chức (đơn vị) kinh tế sẵn sàng thuê (sử dụng) để tiến hành các hoạt động kinh tế với mức tiền lương nhất định.
Cầu lao động phụ thuộc chủ yếu vào quy mô sản lượng và hệ số co giãn việc làm đối với sản lượng (đầu ra).
Quan hệ giữa việc làm và đầu tư thường được các nhà kinh tế xem xết qua chỉ tiêu mức đầu tư để tạo ra một chỗ làm việc mới chẳng hạn ở nước ta, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế mức đầu tư trung bình cho một chỗ làm việc mới khoảng 39,3 triệu đồng (cuối những năm 90).
Mức đầu tư cần thiết để tạo việc làm có quan hệ với công nghệ sản xuất. Những ngành có công nghệ cao sẽ cần nhiều vốn hơn để tạo một chỗ làm việc mới và ngược lại